Thứ Năm, 11 tháng 7, 2013

Học sáng tạo

sangtaodoimoi.blogspot.com dẫn từ nguồn: http://www.khoahocphattrien.com.vn/news/bandocviet/?art_id=6827
Đã có nhiều nguyên nhân được nêu ra về tình trạng học sinh bỏ học, không hứng thú học, song có một nguyên nhân ít được nhắc tới đó là việc coi thường tâm lý "thích sáng tạo" của học sinh, chỉ lo nhồi nhét kiến thức.
Đã từ lâu, ngành giáo dục chủ trương đổi mới cách dạy, cách học nhưng kết quả đạt được chưa cao. Mà nguyên nhân sâu xa là ở chỗ, yêu cầu giáo viên rèn óc thông minh sáng tạo cho học trò nhưng lại không trang bị cho giáo viên khoa học về sự sáng tạo. Khoa học về sự thông minh nảy sinh qua việc dạy cho học sinh biết cách phân tích, tổng hợp, suy diễn. Nhưng như thế là chưa đủ khi thiếu những bài học yêu cầu về sự sáng tạo. Ngay ở các kỳ thi toán quốc tế, thí sinh giải những bài toán khó trong đó đã cho biết giả thiết và kết luận, thí sinh chỉ phải tìm ra cách suy diễn từ giả thiết và kết luận. Tư duy của họ giống như một con chim trong lồng, có thể nhảy nhót nhưng không ra khỏi các lồng. Cái lồng đây chính là đề bài. Dĩ nhiên, rèn được óc thông minh cũng tốt và không dễ, nhưng thời đại ngày nay đòi hỏi sự sáng tạo, nhất là với những nước còn nghèo như nước ta để đuổi kịp rồi vượt lên so với các nước khác. Vậy ngành giáo dục phải làm gì? Phải làm sao sớm có khoa học về sự sáng tạo, để không còn "kêu gọi" dạy và học sáng tạo chung chung nữa. Hiện nay, còn nhiều nhận thức cảm tính không đúng xung quanh hai chữ "sáng tạo", ví như cho rằng phải dạy thật tốt, học thật tốt chờ cho học sinh có nhiều kiến thức rồi mới dạy sáng tạo, học sáng tạo. Đành rằng nhiều kiến thức là một thuận lợi cho sự sáng tạo nhưng không nhất thiết người nhiều kiến thức hơn thì sáng tạo hơn người ít kiến thức vì đặc điểm của "sáng tạo" là có thể xuất hiện ở những người trình độ học vấn rất khác nhau.
Từ trước đến nay, ngành giáo dục chỉ đưa công tác nghiên cứu khoa học vào các trường đại học mà không đưa vào các trường phổ thông. Trước đây, Trường Đại học sư phạm Hà Nội đã chủ trương sử dụng học sinh phổ thông trung học làm cộng tác viên cho các đề tài nghiên cứu khoa học và đã gặt hái được những thành công. Qua đó thấy nổi lên hai sức mạnh lâu nay bị bỏ phí: một là sức mạnh liên kết bộ ba: đại học, phổ thông, cuộc sống. Cả ba đều có lợi vì đại học được nối thêm tay, thêm óc của đông đảo học sinh phổ thông, phổ thông được tiếp xúc với một hình thức học rất tiến bộ có tác dụng nhiều trong việc rèn luyện tác phong công nghiệp và tư duy sáng tạo, cuộc sống có thêm lực lượng học sinh để chuyển giao công nghệ từ một cơ quan khoa học vào cuộc sống, hai là "tâm lý thích sáng tạo" của con người. Ngẫm ra, đã là con người thì ai cũng chán khi phải kéo dài mãi một việc mà không hề có đổi mới. Ngay ở lứa tuổi mẫu giáo, các cháu cũng đã bộc lộ rõ tâm lý đó: cho các cháu một đồ chơi dù hay, dù đẹp đến mấy, chơi mãi rồi cũng chán. Khi đó các cháu sẽ bày ra những đồ chơi, cách chơi do các cháu tự nghĩ ra. Ngày nay, nhiều người nói đến việc học sinh bỏ học, chán học, không hứng thú học và chỉ ra nhiều nguyên nhân mà quên nguyên nhân cốt lõi là coi thường tâm lý "thích sáng tạo" của học sinh, chỉ lo nhồi nhét kiến thức.
Sáng tạo thì vô cùng: người người sáng tạo, ngành ngành sáng tạo, nghề nghề sáng tạo. Đại dương sáng tạo thật là mênh mông. May thay đã có la bàn kỳ diệu là ba quy luật của phép biện chứng. Sáng tạo là một sự vận động từ cái cũ đến một cái mới tiến bộ hơn cái cũ. Một sự vận động thì tuân theo lôgic biện chứng: A vừa là A vừa không phải là A (ký hiệu là À). Một A có thể có nhiều À (À1, À2,…, An) với n có thể lớn vô cùng. Ví dụ số 4 có thể là 8/2, là 16/4, là 22,… ta hãy thử bắt đầu từ A và cố đi đến một cái mới B tiến bộ hơn A.
Bước thứ nhất: phủ định A, biến nó thành À nào đó (khi có nhiều À thì chọn cái nào hứa hẹn nhiều nhất) ví dụ nếu A là một tam giác LMN thì À có thể là tứ giác LMNL trong đó L trùng với L.
Bước thứ hai: lấy một chân lý nào đó trong A (ví dụ một định lý về tam giác) rồi phiên dịch định lý đó ra ngôn ngữ của À (như dạng tam giác thành tứ giác có một cạnh bằng không) và phải rất tinh trong việc dịch này để khỏi bỏ sót những phát hiện mới, ví dụ, trong tam giác cũng là một tứ giác có hai đỉnh trùng nhau nhưng đã là tứ giác thì nó có hai đường chéo còn tam giác không có đường chéo. Do vậy, đã lờ mờ xuất hiện trong À những cái mới không có trong A.
Bước thứ ba: Để cho cái còn lờ mờ trong bước 2 hiện rõ, ta lại phủ định cái phủ định. Ví dụ cái "phủ định" trong tam giác là cạnh LL = 0 đã làm cho tam giác biến thành tứ giác. Phủ định cái phủ định tức là bỏ LL=0 mà thay bằng LL?0 tức là dịch L ra khỏi L để có một bài toán trong tứ giác do chính ta đặt ra chứ không phải do sách hay thầy đề xuất. Dĩ nhiên còn phải giải bài toán đó thì mới đi đến những chân lý mới (do ta phát hiện và mới đến với ta) trong tứ giác, thế là có cái mới B. Nhưng phát hiện được vấn đề cũng rất quan trọng. Mọi phát minh, sáng chế đều bắt đầu từ chỗ phát hiện ra một vấn đề. Nhiều giáo viên đồng nhất việc đổi mới cách dạy với việc giảng dạy nêu vấn đề. Đó là một sự tiến bộ so với giảng dạy áp đặt, nhồi nhét, nhưng vẫn là một sự hạn chế vì học sinh vẫn thụ động ngồi chờ thầy nêu vấn đề cho. Sưc ỳ tâm lý là một trở ngại cho việc phát hiện vấn đề. Ngày nay, người ta có nhiều cách để chống sức ì tâm lý nhưng chưa có cách nào xuất hiện trong nhà trường chúng ta.
Trong ví dụ về tam giác và tứ giác nói trên, ta còn thấy cả quy luật về lượng đổi, chất đổi. Quả vậy khi chiều dài của đoạn LL triệt tiêu thì xảy ra sự đột biến từ tứ giác thành tam giác và ngược lại. Xin lấy ví dụ khác: lúc mới học phải có dạy rồi dạy bị phủ định chỉ còn "tự học"; tự học thì tư duy độc lập phát triển, sẽ có tư duy phê phán, cuối cùng học bị phủ định, đột biến thành nghiên cứu khoa học.
Vậy, phải xây dựng được một khoa học về sáng tạo để chỉ đạo việc dạy và học sáng tạo. Muốn vậy phải có một sự nhất trí cao và một quyết tâm lớn để xây dựng một lộ trình thích hợp. Về bước đi thì trước tiên có thể giao cho hai trường Đại học sư phạm trọng điểm mở màn. Về bộ môn thì trước hết hãy triển khai với môn Toán bởi hai lẽ: một là loài người đã thừa nhận "toán học là thể dục của trí não"; nó đòi hỏi sự chính xác nghiêm ngặt nên dễ phát hiện ra những sai sót mà ở môn khác có thể bỏ qua; hai là toán học không cần trang thiết bị gì (ngày nay, có thể đôi khi cần đến máy tính điện tử).
Mỗi học sinh như một cây non. Nếu đem trồng ngoài trời thì nó có thể trở thành cây đại thụ nhưng nếu đem trồng trong chậu cảnh thì nó sẽ chỉ là cây cảnh. Chính cái chậu cảnh đã ngăn không cho cây non trở thành cây đại thụ. Cách dạy truyền thụ một chiều, nhồi nhét chính là những chậu cảnh. Nên phá các chậu cảnh đi và cách phá tốt nhất là đưa sáng tạo vào các trường học một cách bài bản, khoa học.
Giáo sư Nguyễn Cảnh Toàn



----------------------------------------------------------------------------------------------
TRITRI.org - SÁNG TẠO ĐỔI MỚI
Thích ứng thay đổi * Chủ động sáng tạo * Dẫn dắt thành công
BÀI GIẢNG sáng tạo: bộ cũ link                 BÀI VIẾT sáng tạo: link
BÀI GIẢNG sáng tạo: bộ mới link             HÌNH ẢNH sáng tạo: link

Chìa khóa vàng dẫn dắt thành công trong sáng tạo đổi mới: link

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét